Cuộc đời Đức Phật Thích Ca từ lúc Đản Sanh tới lúc nhập Niết Bàn

Cuộc đời Đức Phật Thích Ca Từ Đản Sanh đến Niết Bàn

Cuộc đời Đức Phật Thích ca và những lời dạy của Ngài đến ngày nay vẫn còn mãi qua những sách kinh về cuộc đời Đức Phật, những hình ảnh về cuộc đời Đức Phật , nhạc kinh về Cuộc đời Đức Phật.

 

XEM THÊM TƯỢNG ĐỨC PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI ĐẸP

[elementor-template id=”9991″]

I, Đức Phật Thích Ca là ai?

Theo quan niệm của Phật giáo, khi nói đến “Phật” có nghĩa là “một người tỉnh thức”.

Tuy nhiên ngày nay, khi nhắc đến từ “ Phật” hay “ Đức Phật” là nói đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nhân vật lịch sử người sáng lập Phật giáo.

Đức Phật sinh ra trên đời như một người bình thường, cuộc đời Đức Phật Thích Ca đã trở thành một người có những hiểu biết sâu sắc và truyền cảm hứng cho thế giới.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật trong lịch sử, hay Đức Phật Cồ Đàm (Gautama), sống cách đây khoảng 2.500 năm tại Ấn Độ.

Tuy nhiên, Theo như lời dạy của Đức Phật, Ngài không phải là đức Phật đầu tiên, và sẽ không phải là đức Phật cuối cùng.

Đức Phật đã dạy rằng trong thời đại này, trong một khoảng thời gian rất dài, từ rất lâu khi vũ trụ mới hình thành, sẽ có 1.000 vị Phật toàn giác thuyết giảng về Phật giáo (sau khi Phật giáo đã bị hoàn toàn lãng quên).

Kinh điển Phật Giáo ghi lại rằng, Đức Phật thứ nhất, thứ hai, thứ ba là Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda), Câu Na Hàm Mâu Ni Phật (Kanakamuni), Ca Diếp Phật (Kashyapa), tiếp theo là đến Ngài, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), và Đức Phật tiếp theo sẽ là Đức Phật Di Lặc (Maitreya).

II, Các giai đoạn và cột mốc quan trọng trong Cuộc đời Đức Phật Thích Ca:

1, Sự ra đời của Đức Phật:

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được cho là sinh ra vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, năm 623 trước Công Nguyên, tại vườn Lâm-Tỳ-Ni ở thủ đô Ca-Tỳ-La-Vệ của một nước nhỏ thuộc miền Bắc Ấn Độ, một nơi gần với biên giới nước Nepal.

Tuy nhiên sau này, Đại Hội Phật giáo Thế giới quyết định thay đổi kỉ niệm ngày sinh của Đức Phật vào ngày trăng tròn 15-4 âm lịch, Đại Lễ Phật Đản trong Phật Giáo cũng được tổ chức vào ngày 15-4.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thân là Hoàng tử Sĩ – Đạt – Ta, con của Vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma-Da. Khi sanh Đức Phật được 7 ngày thì Hoang Hậu Ma-Da thác sanh về với cung trời.

Sau đó, em ruột Hoàng Hậu, Bà là Maha Pajapati, kết duyên với vua Tịnh Phạn, thay thế chị ruột nuôi dưỡng Hoàng tử Sĩ-Đạt-Ta khôn lớn.

Thời kì đầu trong cuộc đời Đức Phật, Ngài sinh ra, lớn lên và hưởng được sự giáo dục hoàn hảo của bực Vua Chúa, trong đó có giáo lí đạo Bà – La – Môn, được Vua Thịnh Phạn lựa chọn để kế thừa ngôi Vua.

Ngài sinh ra có bản chất thông minh và chịu nên giáo dục vua chúa nên trở thành một người văn võ toàn tài.

Năm 16 tuổi, Thái tử kết duyên cùng người em họ cô cậu cùng tuổi là Công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodhara).

Từ lúc kết hôn đến năm 29 tuổi, Thái tử được sống một cuộc sống sung túc trong cung điện, không hay biết chi các nỗi thống khổ của dân chúng ở bên ngoài

2, Trăn trở về những sự khổ đau của người đời:

Vào một ngày, Thái tử quyết định đi du ngoạn bên ngoài Hoàng cung tiếp xúc với dân chúng và thị sát cuộc sống bên ngoài.

Ngài chứng kiến được những người dân vất vã mưu sinh hằng ngày.

Thêm vào đó, Chúng sinh cũng vì sự sống mà xảy ra những tranh giành giết hại lẫn nhau.

Lại vào một ngày khác, Thái tử lại còn được chứng kiến cảnh già yếu, ốm đau, chết chóc biệt ly.

Ngài tự hỏi và trăn trở: Vậy thì đời sống của con người có gì là sung sướng?

Những thay đổi lớn trong suy nghĩ từ đó cũng tạo ra một sự thay đổi trong Cuộc đời Đức Phật

Với cương vị một Thái Tử cao quý, Ngài sắp sửa lên ngôi vua trị vì Thiên hạ thì nghèo đói, Ngài không cần lo.

Nhưng sự già yếu, ốm đa và chết thì không ai tránh khỏi, Ngài cũng vậy.

Ngài lập chí và âm thầm tìm phương pháp giải khổ cho nhân sinh.

Một ngày nọ, Ngài gặp một tu sĩ ngoài cửa Hoàng thành, dáng vẻ người này rất ung dung, mặt mày trông rất thư thái vô tư.

Ngài tiếp xúc bắt chuyện và được biết vị tu sĩ ấy xuất gia đi tu học đạo, với mục đích quyết tâm trừ bỏ ác căn, lấy lòng từ bi để kìm chế dục vọng, hộ niệm chúng sinh không nhiễm theo thế tục, giải thoát cho mình và chúng sinh

Nghe vậy, Thái tử Sĩ-Đạt-Ta vô cùng hoan hỷ, Ngài quyết tâm sẽ tu hành như vị tu sĩ ấy.

Nhà Vua thấy Thái tử có ý muốn đi tu nên cảm thấy không hài lòng và tìm mọi cách để ngăn cản không cho Thái Tử xuất gia tu hành.

Cũng vào thời điểm đó, vợ của Thái tử, Công chúa Gia-Du-Đà-La, vừa sinh được một Hoàng nam.

Thái tử không những không cảm thấy vui mừng trước việc này mà còn xem nó như một bước cản và than rằng: “Lại thêm một sợi dây trói buộc.”

Vua Tịnh Phạn đặt tên cho cháu trai mới ra đời là: Rahula (Ra-Hầu-La) [Rahula, tiếng Phạn có nghĩa là Trở ngại].

3, Rời bỏ cuộc sống xa hoa ở tuổi 29 và xuất gia tu đạo:

Ngày mùng 7 tháng 2, năm Thái tử được 29 tuổi, sau một bữa đại tiệc, lợi dụng lúc vợ con và binh lính ngủ say, Thái tử lệnh cho quan hầu cận Xa-Nặc thắng ngựa Kiền trắc (Kanthaka) để Thái tử rời khỏi Hoàng cung, đi vào núi rừng thanh vắng, tìm thầy học đạo tu hành.

Ngựa quý Kiền trắc chạy đi rất nhanh, ngay trong đêm, nó đã đưa Thái tử vượt Hoàng cung, đến một nơi cách Hoàng Thành rất xa.

Thái tử cởi bỏ gươm, tự mình cắt tóc rồi đưa ngựa Kiền trắc cho Xa-Nặc cỡi trở về triều.

Rồi Ngài đổi áo cho một người thợ săn, sau đó đi nhanh vào núi.

Nhà Vua Tịnh Phạn sai quan lại và binh lính đi tìm Thái tử, nhằm khuyên nhủ Thái tử trở về triều, tuy nhiên không thể lay chuyển được ý chí kiên quyết của Thái tử.

4, Hai người thầy của Đức Phật:

Sau đó, Thái tử tìm đến một Đạo sĩ lỗi lạc Alarama Kalama để xin học đạo và tu hành.

Ngài học hết giáo pháp của Alarama, nhưng Ngài cảm thấy chưa toại nguyện, chưa tìm được còn đường mà mình muốn tìm kiếm.

Ngài từ giã Alarama và tìm đến một Đạo sĩ cũng rất nổi danh khác là Uddaka Ramaputta để xin chỉ giáo.

Ngài cũng học hết giáo pháp của Uddaka, và cảm nhận rằng vẫn chưa thấy được mục tiêu cứu cánh mà mình mong muốn.

Sau khi tu đạo cũng hai vị thầy, Ngài nhận thấy rằng không ai có thể dẫn dắt Ngài đến thành tựu. Ngài cảm nhận hai vị thầy mà Ngài đã học vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa thoát khỏi vô minh.

Từ đó Thái tự mình đến chỗ thanh vắng để tự suy nghĩ tìm tòi chân lý chứ không tìm thầy học đạo nữa.

5, Đức Phật Tu hành khổ hạnh và bước ngoặc trong cuộc đời tu hành của Đức Phật:

Trên đường đi, Ngài gặp nhóm 5 tu sĩ đứng đầu là Ông Kiều Trần Như theo ủng hộ Ngài để Ngài thực hành một lối tu hành của Đạo Bà La Môn vô cùng khổ. Ngài trải qua quá trình 6 năm tu hành khổ hạnh như thế, thân mình của Ngài trở nên gầy gò, hơi thở yếu ớt, cảm nhận như cái chết đang cận kề với Ngài, mà Ngài vẫn chưa tìm được lí thuyết cứu cánh.

Một hôm, trong lúc Ngài đang thiền định thì có một ông Tiểu đến gần cạnh, mang theo một cây đàn, lên dây đàn, đàn một khúc rất hay, nhưng đến lúc hay nhất thì đây đàn bị đứt, tiếng đàn im bặt. Ông tiều lại nối dây, lại đàn, rồi lại đứt dây đàn lúc cao trao như vậy. Việc này diẽn ra liên tục 3 lần.

Thái tử đang thiền định phải bực bội than vãn rằng:

Ông đàn thì hay mà sao lại lên dây cao quá, đến khúc hay thì dây đứt, cái hay ấy phải cắt đứt, rất đáng tiếc.

Ông tiều liền đáp rằng :

Cái đàn của tôi cũng như con đường tu hành của Ngài. Dây đàn tôi lên cao quá, nên đến chỗ hay thì đứt, thì cái hay của tiếng đàn chẳng trở nên mất di hết; còn tu hành của Ngài, nếu cái cao siêu huyền bí đạt được cơ bất diệt đi nữa thì nó cũng phải chết theo Ngài, liệu có hữu ích cho đời này. Tôi cũng lấy làm tiếc vậy.

Rồi sau đó lão Tiều xách đàn rời đi mất.

Thái tử ngẫm nghĩ về lời nói của lão tiều, liền tỉnh giác, Ngài nhận ra mình lầm theo lối tu khổ hạnh, khiến trí lực và tinh thần mệt mỏi, suy giảm.

Ngài liền dứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh, cũng như 6 năm trước đây, Ngài đã dứt khoát từ bỏ đời sống lợi dưỡng.

6, Bát cháo sữa của nàng Suyata và 49 ngày thiền định dưới gốc cây bồ đề chứng đạt Phật quả:

Thái Tử nhớ về ngày lễ Hạ điền trước kia, Ngài đến dưới bóng mát của cây trâm trong lúc mọi người đang làm lễ, ngồi thiền định và đắc được Sơ Thiền.

Ngài nhận ra rằng, đó chính mới là con đường có thể dẫn đến giác ngộ. Ngài lựa chọn con đường tu hành là không sống theo lợi dưỡng, mà cũng không quá khắc khổ.

Ngài quyết định từ bỏ phương pháp tu khổ hạnh. Ngài đến bên bờ sông Ni-Liên-Thiền, bước xuống tắm rửa sạch sẽ, sau đó lên bờ, Ngài kiệt sức ngã vào một cội cây bất tỉnh.

May mắn thay, lúc đó có một cô gái bưng một bát cháo sữa tìm đến cúng dường. Khi thấy một Đạo Sĩ đang nằm mệt nhọc tại gốc cây, nàng đến và đỡ dậy, rồi đưa bát cháo sữa cho người Đạo Sĩ uống.

Ngài nhận lấy bát cháo sữa, uống hết, rồi Ngài tỉnh táo trở lại, sức khỏe Ngài dần dần được phục hồi, tinh thần sảng khoái trở lại.

Ngài cảm ơn nàng thiện nữ và biết nàng tên là Suyata, sau đó Ngài tìm đến một gốc cây Bồ đề lớn, cành lá sum suê. Ngài ngồi trên thảm cỏ, tham thiền, Ngài thề nguyện rằng: “Nếu không thành đạo thì nhất định không rời khỏi chỗ ngồi này”.

Ngài thiền định dưới gốc cây Bồ Đề như vậy suốt 49 ngày đêm, Ngài đạt ngộ đạo, biết được nguyên nhân sinh tử của con người, và Ngài cũng tìm được con đường giải thoát chúng sinh thoát vòng luân hổi khổ não.

Ngài đắc quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác, lúc đó là tuổi 35 trong Cuộc Đời Đức Phật, lấy Phật hiệu là: Thích Ca Mâu Ni.

III, Cuộc đời của Đức Phật Thích Ca sau khi ngộ đạo tới lúc nhập Niết Bàn:

7, Thành lập tăng đoàn – hình thành Tam Bảo Phật giáo:

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi ngộ đạo chưa quyết định truyền bá giáo pháp của Ngài, lúc đó Ngài nghĩ rằng: Như Lai đã khó khăn lắm mới chứng ngộ được giáo pháp ấy, giáo pháp này đi ngược dòng tham ái, rất thâm diệu, khó mà nhận thức được. Về phía người đời còn mang nặng tham ái sân hận, khó có thể hiểu được, vì.

Đấng Thượng Đế cảm thấy lo ngại rằng Đức Phật Thích Ca không chịu đem giáo pháp của Ngài truyền dạy để cứu độ nhân sinh, Thượng đế truyền lệnh cho vị Phạm Thiên Vương đến yêu cầu Đức Phật mở lòng từ bi và truyền bá giáo pháp cho mọi người.

Đức Phật Thích Ca nhận lời và tuyên rằng: “Cửa vô sinh bất diệt đã mở cho chúng sinh. Hãy để ai có tai muốn nghe đặt trọn niềm tin tưởng”.

Cũng lúc đó, nhóm 5 người do Ông Kiều Trần Như đứng đầu, sau khi thấy Đức Phật bỏ lối tu khổ hạnh, ăn uống trở lại, nên họ nghĩ rằng Thái tử trở về lối sống lợi dưỡng, thì họ quyết định rời bỏ Ngài, rồi đi đến vườn Lộc giả.

Đức Phật Thích Ca suy nghĩ và thấy tiếc cho họ, họ đã theo ủng hộ Ngài trong một thời gian dài, gần 6 năm. Nay Ngài đã đắc đạo Vô thượng Bồ đề, Ngài cũng muốn độ cho những Ông này trước tiên.

Đức Phật sử dụng thần thông để tìm kiếm và biết họ đang ở vườn Lộc giả xứ Bénarès.

Khi Đức Phật liền đi đến đó, lúc đầu các Ông định không đảnh lễ Ngài vì cho rằng Ngài đã qui phàm. Nhưng khi Đức Phật đến gần, với vẻ oai nghi đầy từ bi, họ cảm nhận được và thay đổi thái độ, đảnh lễ với Ngài

Đức Phật Thích Ca thuyết cho năm ông nghe Giáo pháp Tứ Diệu Đế. Đây là bài pháp đầu tiên mà Đức Phật thuyết cho 5 vị được nghe, họ được giác ngộ, đắc quả A-La-Hán, trở thành 5 Tỳ kheo và cũng là những đệ tử đầu tiên của Đức Phật.

Những lời dạy đầu tiên của Đức Phật trong Tứ Diệu Đế, cũng là giáo pháp căn bản của Phật giáo.

Bắt đầu từ đây Phật Giáo có đủ Tam Bảo: Đức Phật Thích Ca là Phật Bảo, 5 vị Tỳ Kheo đệ tử đầu tiên của Phật là Tăng Bảo, Giáo pháp Tứ diệu Đế là Pháp Bảo. Ấy là ngôi Tam Bảo đầu tiên của thế gian.

Đức Phật Thích Ca cùng 5 vị Tỳ Kheo đi khắp nơi thuyết pháp, thu nạp hằng vạn đệ tử xuất gia, thành lập tăng đoàn với đủ các hạng người trong tất cả giai cấp ở Ấn Độ, đủ mọi hoàn cảnh thân phận giàu nghèo, sang hèn, quan dân, hay vua chúa.

Những sự kiện quan trọng trong cuộc đời truyền đạo của Đức Phật là:

  • Độ được 3 anh em Ca-Diếp-Ba khi ba người này đang tu theo đạo thờ Thần lửa. Ba Ông này cùng hơn 1000 đệ tử, cùng qui y theo Phật.
  • Độ được 2 học giả của phái Lục Sư ngoại đạo là Ông Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiều-Liên.
  • Độ được Quốc vương Tần-Bà-Sa-La nước Ma-Kiệt-Đà. Quốc vương tin tưởng Phật pháp, khuyến khích dân chúng qui y theo Phật pháp. Vua cho xây dựng Tịnh Xá rộng rãi trong nội thành để thỉnh Phật và để các chư tăng thường xuyên thuyết pháp.
  • Độ được vị Phú Trưởng giả Cấp-Cô-Độc là người sau này kiến lập một tòa Tịnh Xá cao rộng tôn nghiêm, gọi là Kỳ-Thọ Cấp-Cô-Độc Viên, nơi giúp Đức Phật và chư Tăng giảng đạo.
  • Độ được Phụ vương và quyến thuộc của Đức Phật.

Mười vị đại đệ tử xuất sắc được Đức Phật Thích Ca lựa chọn bao gồm :

  • Xá Lợi Phất
  • Mục Kiều Liên
  • Đại Ca Diếp
  • A Nan
  • A Na Luật
  • Phú Lâu Na
  • Tu Bồ Đề
  • Ưu Ba Ly
  • Ca Chiên Chiên
  • La Hầu La.

8, Đức Phật lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni

Sau khi Phụ Vương của Đức Phật là Vua Tịnh Phạn qua đời, Hoàng Hậu Maha Pajapati, mẹ nuôi của Đức Phật, cầu xin Đức Phật cho hàng phụ nữ được xuất gia tu hành nhưng bị Đức Phật từ chối mà không cho biết lí do.

Bà Maha Pajapati thêm 3 lần cầu xin nữa, nhưng đều bị Đức Phật từ chối.

Ông Ananda, cũng 3 lần giúp đỡ và đưa lời cầu xin lên Đức Phật cho phép nữ giới được xuất gia, nhất là đối với Bà mẹ nuôi của Đức Phật, nhưng Ngài vẫn cương quyết từ chối.

Đến lần thứ 4, Đức Phật cũng đồng ý chấp thuận và Ngài nói lí do từ chối như sau:

“Trong Luật Tạng có ghi mấy lời dạy của Đức Phật như sau: Nền Chính pháp của Ta, đáng lẽ trụ thế 1000 năm hoặc lâu hơn nữa, nhưng trót vì Ta đã cho hàng phụ nữ xuất gia, nên nền Chính pháp bị giảm bớt, chỉ trụ thế 500 năm mà thôi”. (Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn, trang 376, quyển 1: Chính Pháp).

Theo lời dạy của Đức Phật chúng ta thấy rằng, nếu chấp thuận cho hàng phụ nữ xuất gia học Phật tu hành, lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni thì Chính pháp của Phật sớm bị sửa cải, chỉ kéo dài được 500 năm mà thôi, thay vì được 1000 năm nếu thu nhận phụ nữ xuất gia.

Nhưng trước sự quyết tâm và sự chân thành của Mẹ nuôi, cùng với lòng từ bi bác ái của Phật, Đức Phật không nỡ bỏ Nữ phái và quyết định thành lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni, mặc dầu biết rằng việc này làm cho thời kỳ Chính pháp của Phật giảm đi một nửa, chỉ kéo dài 500 năm.

“Khi Đức Phật cho thành lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni, Ngài đã tiên đoán những hậu quả và lưu ý:

«Này Ananda, nếu Nữ giới không được chấp thuận thoát ly thế tục để khép mình vào nếp sống không nhà cửa trong khuôn khổ của Giáo pháp và Giới luật mà Như Lai đã công bố thì đời sống xuất gia và Giáo pháp cao siêu sẽ tồn tại lâu dài. Nhưng Nữ giới đã được phép sống đời không nhà cửa thì đời sống xuất gia và Giáo pháp cao siêu chỉ tồn tại phân nửa thời gian“ (Trích Đức Phật và Phật Pháp, của Đại Đức Narada, trang 152).

Sau khi Giáo Hội Tỳ Kheo Ni được thành lập, Bà Maha Pajapati tu đắc quả A-La-Hán, được liệt vào hàng cao hạ có nhiều kinh nghiệm nhất, không thua bên Nam phái.

Vợ của Đức Phật trước đây là Công Chúa Da-Du-Đà-La cũng xuất gia tu hành, đắc quả A-La-Hán. Trong hàng Tỳ Kheo, Bà Da-Du-Đà-La đứng đầu những vị đắc Đại Thần Thông, và Bà nhập diệt lúc 78 tuổi.

Đức Phật đi khắp nơi trong miền Bắc Ấn Độ thuyết pháp được 45 năm mới nhập Niết Bàn ở tuổi 80.

Trong Hội Linh Sơn diễn ra trước đó, Đức Phật chọn Ma-Ha Ca-Diếp làm người kế vị cho Ngài điều khiển Giáo Hội.

Đức Phật bảo Ma-Ha Ca-Diếp: “Ta có Chính Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay Ta giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ Chính pháp này, truyền mãi đừng cho dứt, đến sau truyền lại cho A-Nan”.

Bài kệ của Đức Phật dạy rằng:

«Pháp bổn pháp vô pháp, Pháp vô pháp diệc pháp, Kim phó vô pháp thời, Pháp pháp hà tằng pháp ».

Nghĩa là :

Pháp gốc pháp không pháp, Pháp không pháp cũng pháp, Nay khi trao không pháp, Mỗi pháp đâu từng pháp.

Đức Phật sau khi nhập niết bàn, thi thể được hoả táng. Sau đó xá lợi được chia làm 8 phần thờ ở 8 nơi như sau:

  • Câu-Thi-Na
  • Pa-Bà
  • Giá-La
  • La-Ma-Già
  • Ca-Tỳ-La-Vệ
  • Tỳ-Lưu-Đề
  • Tỳ-Xá-Ly
  • Ma-Kiệt-Đà.

IV, Ý nghĩa và bài học qua cuộc đời Đức Phật Thích Ca:

Bằng những lời dạy và chính cuộc đời của Ngài được kết tập lại trong ba tạng kinh điển, Đức Phật đã khai thị cho loài người biết rằng, bất cứ một ai nếu có sự nỗ lực của bản thân, đều có thể vươn lên tới đỉnh cao nhất của giác ngộ và giải thoát, cũng giống như chính Đức Phật vậy.

Có thể nói hệ tư tưởng của Đạo Phật luôn đề cao con người và đặt niềm tin vào con người. Nhờ đó Đạo Phật có tính nhân bản tuyệt vời.

Hướng tới việc thiện, tránh xa ác căn, gột sạch nội tâm để trở thành bậc Thánh, hoàn thiện con người về đức hạnh và trí tuệ, mỗi người chúng ta đều có khả năng và bổn phận thực hiện lời dạy đó. Đó chính là bức thông điệp mà Đức Phật đã trao cho mỗi người chúng ta. Ðó là ý nghĩa chân chính của nhân sinh, là giá trị của cuộc sống một cách chân thực. Không thể có ý nghĩa nhân sinh nào có thể cao quí hơn đối với cuộc sống chúng ta hiện nay.

Chúng tôi từ lâu vẫn cho rằng cuộc đời của Đức Phật, trong nét đại cương cũng như chi tiết đều thể hiện và truyền đạt một cách vô cùng sinh động lời dạy của Đức Phật. Đảnh lễ và niệm danh hiệu Đức Phật, tin tưởng ở Ngài, chủ yếu là để học tập Ngài về cả hai mặt trí tuệ và đức hạnh, dù chỉ là trong muôn một. Con người có thể ở gần Phạt nếu như biết sống có giới hạnh, theo lời Phật dạy. Người nào tuy sống bên cạnh Phật, nhưng không biết sống giới hạnh, thì cũng muôn trùng cách xa Phật.

Phật tử Việt Nam hiện tại sống cách xa Đức Phật gần 2500 năm, nhưng hãy giữ vững niềm tin rằng chúng ta vẫn sống bên cạnh Đức Phật nên chúng ta sống có giới hạnh, theo đúng lời dạy trong con đường bát chánh đạo.

Được sống trong vũ trụ, được làm người là một chuyện vô cùng khó. Ðức Phật có dạy rằng: “được làm người khó như một con rùa chột mắt, cứ mỗi trăm năm mới ngóc đầu lên khỏi mặt biển một lần, và tìm cách chui đầu vào lỗ nhỏ của một khúc gỗ trôi lềnh bềnh trên mặt nước, bị gió Ðông, gió Tây, gió Nam, gió Bắc thổi trôi dạt hết phương này đến phương khác”.

Ðược làm người vô cùng khó khăn cũng giống như con rùa chột mắt muốn chui qua được lỗ nhỏ của khúc gỗ. Trong kinh Tương ưng V, lời dạy Đức Phật được chép rằng “Ví như này các Tỳ-kheo, một người quăng một khúc gỗ có một lỗ hổng vào biển lớn. Tại đấy có con rùa mù, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần. Các ngươi nghĩ thế nào, này các Tỳ-kheo. Con rùa ấy, sau mỗi trăm năm, nổi lên một lần, có thể chui cổ vào khúc cây có một lỗ hổng hay không?”

“Năm khi mười họa may ra có thể được, bạch Thế Tôn, sau một thời gian dài”.

“Ta tuyên bố rằng còn mau hơn, này các Tỳ-kheo, là con rùa mù ấy, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần, có thể chui cổ vào khúc gỗ có lỗ hổng ấy. Còn hơn kẻ ngu, khi một lần đã rơi vào đọa xứ, để được làm người trở lại. Vì cớ sao? Vì rằng ở đấy không có pháp hành, chánh hành, thiện nghiệp, phước nghiệp. Ở đấy, này các Tỳ-kheo, chỉ có ăn thịt lẫn nhau, và chỉ có kẻ yếu bị ăn thịt..” (Tương ưng V, 485).

“Thật khó được vậy, này các Tỳ-kheo, là được làm người. Thật khó được vậy, này các Tỳ-kheo, là được gặp Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác, thật khó được vậy, này các Tỳ-kheo, là được gặp Pháp và Luật này do Thế Tôn thuyết giảng, chiếu sáng trên đời.” (Tương ưng V, 450 – 460).

Ðức Phật sinh ra trên đời này cũng là chuyện khó như thế. Pháp và Luật được Đức Phật truyền đạt lại trên đời cũng là chuyện khó như thế. Chúng ta nhận được ba điều may mắn hiếm có là được sinh làm người, được biết Đức Phật Thích Ca và Pháp, Luật do Đức Phật dạy. Vì đó chúng ta phải biết tranh thủ ba điều may mắn trên. Chúng ta lại có thể sống không giới hạnh, sống trái với lời Phật dạy, để lôi cuốn vào những cõi sống khác thấp hơn, khổ hơn cõi người bởi những ác nghiệp, và cuối cùng phải phấn đấu trở lại làm người như con rùa chột mắt trong câu chuyện ví dụ của Đức Phật hay sao?

Rất mong quý vị Phật tử suy ngẫm về bài học của lịch sử Cuộc đời Ðức Phật, về ảnh dụ con rùa chột mắt chơi vơi trên đại dương, về giá trị chân thực của cuộc sống và ý nghĩa của nhân sinh, về cuộc sống hiện thực này của mỗi chúng ta, làm sao để cho cuộc sống đó thật sự an lạc, hướng thượng, lợi cho mình, cho người, cho đời, và cho cả Ðạo”.

Cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và những lời dạy của Đức Phật đến ngày nay vẫn còn mãi qua những sách kinh về cuộc đời Đức Phật, những hình ảnh về cuộc đời Đức Phật , nhạc kinh về Cuộc đời Đức Phật.

Những bài học về cuộc đời Đức Phật còn được dựng thành những tác phẩm nghệ thuật : Phim về cuộc đời Đức Phật, Cuộc đời Đức Phật qua tranh vẽ …

 

 

XEM THÊM TƯỢNG ĐỨC PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI ĐẸP

[elementor-template id=”9991″]

Xin mời quý Phật tử hoan hỷ chiêm ngưỡng video tổng hợp những hình ảnh tượng Phật đẹp nhất do điêu khắc Trần Gia tôn tạo nhé.

Nhận xét tích cực từ quý khách hàng của cơ sở điêu khắc tượng Phật Trần Gia:

Mời quý Phật tử cùng chiêm ngưỡng hết các mẫu tượng Phật đẹp nhất do điêu khắc Trần Gia tôn tạo nhé:


* Tượng Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni


* Tượng Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát


* Tượng Phật Địa Tạng Vương Bồ Tát.


* Tượng Phật Văn Thù Sư Lợi – Phổ Hiền Bồ Tát .


* Tượng Phật A Di Đà.


* Tượng Đạt Ma Sư Tổ.


* Tượng Phật Di Lặc Bồ Tát.


* Tượng Tiêu Diện Đại Sĩ – Vi Đà Hộ Pháp.

Công ty TNHH Điêu Khắc Trần Gia.

Chuyên Tư Vấn – Thiết Kế – Thi Công Các Công Trình Nghệ Thuật

Đa Dạng Kích Thước – Đa Dạng Chất Liệu .

Trụ sở chính : 27 Đường số 1, khu phố 5, P. Hiệp Bình Phước, Q. Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh

Lâm Đồng : 57 Nguyễn Chí Thanh, Nghĩa Lập, Đơn Dương, Lâm Đồng

Website : dieukhactrangia.com

Hotline : 0931.47.07.26

​Email : [email protected]